Tài Liệu Thuyết Minh Về Phong Thủy Kinh Thành Huế

Tổng thể kinh thành Huế được đặt trong khung cảnh rộng, núi cao thế đẹp, minh đường lớn và có sông uốn khúc rộng. Núi Ngự Bình cao hơn 100m, đỉnh bằng phẳng, dáng đẹp, tọa lạc giữa vùng đồng bằng. Hai bên là cồn Hến và cồn Dã Viên ở vào thế tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ - là một thế đất lý tưởng theo tiêu chuẩn của phong thủy. Minh đường thủy tụ là khúc sông Hương rộng nằm dài giữa hai cồn cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho đô thành. Chính vua Gia Long đã đích thân nghiên cứu tìm hướng tốt và cuộc đất thuận tiện xây dựng kinh thành Huế.

Dân cư của 8 làng phải di dời đi nơi khác gồm: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, Thế Lại, An Bửu, trong đó đất làng Phú Xuân hầu hết đều nằm gọn trong phạm vi kinh thành sẽ xây. Vì thế, vua Gia Long đã cấp 30 mẫu ruộng, 3 khoảng đất để dựng nhà và 1000 quan để giúp dân Phú Xuân - 7 làng còn lại theo tài liệu của Tả tham tri Bộ binh Võ Liêm mỗi nhà "được cấp 3 lạng và mỗi ngôi mộ dời đi được cấp 2 lạng". Nhà vua nghĩ rằng việc đền bù nhà cửa , ruộng vườn cần phải chu đáo, giữ yên lòng dân để bắt tay xây dựng trên tổng diện tích 520ha và chu vi 9.889m. Huỳnh Đình Kết nhận định đây là đợt giải tỏa lớn, triệt để và khẩn trương, tiến hành trong vòng 2 năm, riêng phần mộ vắng chủ quy tập về nghĩa trang Ba Đòn có đến 10.000 ngôi.

Vì sao vua Gia Long lại quyết định chọn hướng như thế? Nguyễn Đăng Khoa đề cập đến trong Kỷ yếu Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam, số 7 1991 rằng, những công trình kiến trúc của kinh thành Huế được tiến hành theo một hệ thống các quy tắc hết sức nghiêm ngặt của các hình thế núi sông, long mạch "mặt bằng và độ cao thấp của địa hình được người xưa quan niệm đó là văn của đất, có cao, thấp, là có sông, suối, đầm, núi, tạo ra những nhịp điệu riêng của từng vù ;ng - những nhịp điệu lớn chung của nhiều vùng nhỏ tạo ra những đại cuộc đất". Cụ thể hơn, Trần Đức Anh Sơn qua tài liệu về tư tưởng quy hoạch kinh thành Huế thời Gia Long giới thiệu trên tập Cố đô Huế xưa và nay do Hội Khoa học lịc sử Thừa Thiên - Huế và NXB Thuận Hóa ấn hành 2005, đã cho biết nội dung cuộc trao đổi với một người trong hoàng tộc uyên thâm về dịch học, lý số, phong thủy là học giả Vĩnh Cao theo 4 ý chính, nguyên văn:

- 1. Kinh đô, theo quan niệm phong thủy ngày xưa đều hướng về Nam nhưng ngay tại vùng Thừa Thiên, mạch núi Trường Sơn, đặc biệt là quần sơn kề cận kinh đô cho đến dãy Bạch Mã đều chạy theo hướng Tây bắc - Đông nam. Dựa vào thế đất ấy, kinh thành nhìn về hướng Đông Nam là tốt nhất.

- 2. Theo thuật phong thủy thì bất cứ một ngôi nhà hay cung điện gì thì ở phía trước gọi là chu tước (chim sẻ đỏ) thuộc hướng Nam, hành hỏa. Phía trái (từ ngoài nhìn vào) gọi là bạch hổ (hổ trắng) thuộc hướng Tây, hành kim. Phía phải gọi là thanh long (rồng xanh) thuộc hướng Đông, hành mộc. Phía sau gọi là huyền vũ (rùa đen) thuộc hướng Bắc, hành thủy. Đặt kinh thành dựa theo hướng thiên nhiên, dùng ngũ hành mà sinh khắc chế hóa để sửa đổi, tạo thế quân bình, rồi dù ;ng ngũ hành mà tạo lục thân để đoán vị và quy hoạch, bố tri cung điện.
- 3. Phong thủy cũng quan niệm rằng: phía Tây thuộc về chủ; phía Đông thuộc về thê thiếp, bạn bè ti bộc, vật giá, châu báu, kho đụn, vật loại... tức là những thứ mà chủ sai khiến, sử dụng; phía sau thuộc về tử tôn, môn sinh, trung thần, lương tướng. Từ đó, việc bố trí các cung điện, dinh thự... trong Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành cũng dựa vào nguyên tắc này mà phân bổ chức năng.
- 4. Kinh thành Hu& #7871; xây dựng ở vùng đất có nước phủ bốn bề, theo phong thủy là nơi tụ thủy, đất phát tài. Nhưng phía Tây kinh thành lại có khí núi xung sát, sông Hương uốn khúc vì thế hành kim rất vượng. Điều này sẽ có hại cho phía Đông, chủ hành mộc (kim khắc mộc). Mộc yếu sẽ dẫn đến sự hạn chế về của cải, dân chúng, thương mại..., kim động sẽ gây hại cho dương trạch nên dễ sinh tật bệnh, tổn hại gia đạo. Vì thế phải xây chúa miếu ở phía Tây để trấn.  72;ó là lý do ra đời Văn Miếu, chùa Thiên Mụ ở phía Tây kinh thành Huế.

Mặt khác, để tạo được phong thủy tốt, các nhà quy hoạch không chỉ xem hướng công trình mà cần xem xét ảnh hưởng của bố trí nội thất, các bộ phận và kế cấu trong công trình như chiều dài, rộng, cao, các cột, cửa... Ví dụ: Các bộ phận của Ngọ Môn đều dựa vào những con số theo nguyên tắc của dịch học như số 5, số 9, số 100.

Nói rõ hơn, Nguyễn Đăng Khoa qua tài liệu đã dẫn, nhận xét: "Sông Hương theo cách nhìn địa lý cổ, là một dòng sông chảy ngược từ phía Nam lên phía Bắc. Theo quan niệm trong Kinh dịch thì gốc của thủy phải ở phía Bắc và chảy về Nam (khởi từ Khảm và tụ về Ly). Tất nhiên, ở Huế, dòng chảy của sông Hương do địa hình quy định, phía Nam sông Hương là vùng đồi núi cao, hợp lưu của hai nhánh sông Tả và Hữu trạch. Hai dòng nước này hợp lại ở thượng nguồn sông Hư 17;ng, giữa 3 khu núi cao là Kim Phụng, Thiên Thọ và núi Vưng. Nhìn rộng ra thì cả khu vực đồi núi này bắt nguồn từ Trường Sơn, tạt ngang ra biển, tạo nên một đại cuộc đất là Hoành Long.
Dòng sông Hương trong lặng tỏa rộng về phía Bắc ra cảng Thuận An. Dòng nước uốn lượn nhiều lần qua đồi Vọng Cảnh, chảy về phía Nguyệt Biều, rồi lật trở lại chảy qua mặt thành. Theo sách Địa đạo diễn ca của Tả Ao thì long mạch uốn lượn gấp khúc càng nhiều thì càng chứng tỏ đấ ;t có nhiểu sinh khí. Mặt đất nhược dần về phía kinh thành tạo ra một vài thế đất kết tụ gọi là Thủy Hử (phần đất được sông đổi hướng chảy ôm lấy tạo thành). Những loại mạch sơn cước như vậy khi xuống thấp thấy hiền hòa hơn, chính là nơi tạo ra những huyệt địa kết phát. Vua Gia Long đã chọn được khu vực tốt cho việc xây thành, lập kinh đô. Thành có án, có tả thanh long, hữa bạch hổ triều củng, có "thủy đáo điện tiền" và đoạn sông trướ ;c thành đồng thời đóng vai trò minh đường cho thành".

Về vị trí và phong thủy của kinh thành Huế, các sử quan triều Nguyễn đã nhận xét: "Kinh sư là nơi miền núi miền biển đều hợp về, đứng giữa miền Nam miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng; đường thủy thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm, đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân ngăn chận; sông lớn giữ phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng cuốn hổ ngồi, hình thể vững chãi, ấy là do trời đất xếp đặt, thật là thượng đô của nhà vua".

Trong cảnh quan thì yếu tố Thủy (mặt nước sông, hồ, ao) và Thủy đạo (mạng lưới đường thủy gồm các sông, hồ, ao nối với nhau) là thành tố không thể thiếu trong bố cục cảnh quan ở các khu di tích Huế. Ngoài ý nghĩa về mặt triết lý phong thuỷ thì nó còn đóng vai trò quan trọng trong điều tiết nước, cải tạo đất đai, điều hoà môi trường sinh thái xung quanh... được xem như "hệ xương nước" ở Kinh thành Huế.

Đến Huế hiện nay, khi đi dạo quanh ở bờ bắc sông Hương nơi tập trung phần lớn hệ thống kiến trúc của di tích Huế thì sự hiện hữu nhiều các sông, ao, hồ - là dấu tích của vua để lại nhằm điều hòa khí hậu cho một vùng. Những thế hệ sau này tại cố đô lớn lên đều cảm nhận được điều đó, khi bờ bắc rất xanh mát và dễ chịu bởi hệ thống Thủy đạo cực kỳ quý giá này.
Hiện nay, cùng với đà phát triển của đô thị, sự lấn chiếm, san lấp tr& #225;i phép của người dân đã làm cho diện tích các ao hồ di tích Huế bị giảm thiểu một cách nghiêm trọng, nhiều đoạn lòng hào bị san lấp nghiêm trọng, bờ hào bị người dân lán chiếm làm nhà ở.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, trong khu vực Kinh thành có hơn 50 hồ nay đã bị lấp mất gần 1/5, số còn lại (trừ hồ trong khu vực Hoàng Thành) đang bị lấn chiếm, hoặc trở thành nơi xả rác, chất thải của người dân. Các loại động thực vật thu&# 7927; sinh đặc trưng cho hệ thống ao hồ này gần như không còn hoặc còn rất ít, diện tích mặt nước hoang phế, cây cỏ dại, rong bèo mọc tràn lan gây mất mỹ quan cho khu vực. Nguồn nước đều trong trạng thái ô nhiễm ảnh hưởng đến môi trường môi sinh của khu vực.

Đại Dương (Dân Trí) - Tạp chí Duyên dáng Việt Nam - Lý học đông Phương - Admin chúng tôi

Next Post Previous Post